Hòn đảo của bác sĩ Moreau (38)

XXI. Sự trở ngược của Người-Thú.


Theo cách này tôi đã trở thành một “con” giữa những Người-Thú trên Hòn đảo của Bác sĩ Moreau. Khi tôi đã tỉnh giấc, đã là bóng tối quanh tôi. Cánh tay tôi đã nhức nhối trong những tấm băng của nó. Tôi đã ngồi lên, lúc đầu tò mò là ở đâu tôi đã có thể là. Tôi đã nghe những giọng nói tồi tàn nói ở bên ngoài. Rồi tôi đã thấy là chướng ngại vật của tôi đã ra đi, và lối vào mở của căn lều tạm đã trở nên quang đãng. Khẩu súng lục của tôi vẫn còn trong tay tôi.


Tôi đã nghe một cái gì đó thở, đã thấy một cái gì đó đã nấp cùng nhau gần ở bên cạnh tôi. Tôi đã giữ hơi thở của tôi, cố nhìn xem cái đấy là gì. Cái đấy đã bắt đầu xê dịch một cách chầm chậm, không ngừng. Rồi một cái gì đó mềm và ấm áp và ẩm ướt đã chuyển qua tay tôi. Tất cả những bắp thịt của tôi đã co lại. Tôi đã giật tay tôi ra. Một tiếng kêu báo động đã bắt đầu và đã bị nghẹt trong cổ họng của tôi. Rồi tôi chỉ hình dung cái đã xảy ra một cách thích đáng để kiềm chế những ngón tay tôi trên khẩu súng.


"Ai đấy?" Tôi đã nói bằng một tiếng nói thầm khàn khàn, súng lục ổ quay vẫn còn chĩa.


"Tôi - Chủ nhân."


"Mày là ai?"


"Họ bảo không có Chủ nhân bây giờ. Nhưng tôi biết, tôi biết. Tôi đã mang những thân thể xuống biển, ồ Người đi ở Biển! những thân thể của những người ông đã giết. Tôi là nô lệ của ông, Chủ nhân."


"Mày là một “người” mà ta đã gặp trên bãi biển?" tôi đã hỏi.


"Như thế, Chủ nhân."


Thứ Này đã là một cách rành rành đủ trung thực, vì nó đã có thể nhào lên tôi khi tôi ngủ. "Cái đấy là tốt," Tôi đã nói, mở rộng tay tôi cho một cái hôn liếm nữa. Tôi đã bắt đầu thực hiện cái mà sự hiện diện của nó đã gợi ý, và dòng thủy triều can đảm của tôi đã chảy. "Những “người” khác ở đâu?" tôi đã hỏi.


"Họ bị điên; họ là những thằng ngốc," Người-Chó nói." Ngay lúc này họ nói chuyện với nhau ở tận đằng kia. Họ nói, “Chủ nhân chết rồi. Người khác cùng với Roi Da chết rồi. Người khác đã đi bộ vào Biển kia thì cũng như chúng ta. Chúng ta không có Chủ nhân, không có những Roi Da, không có Ngôi nhà Đau đớn nữa. Có một kết thúc. Chúng ta yêu Luật, và sẽ giữ cái đấy; nhưng không có Đau đớn, không có Chủ nhân, không có những Roi Da vĩnh viễn một lần nữa.” Họ nói thế. Nhưng tôi biết, Chủ nhân, tôi biết."


Tôi đã cảm thấy trong bóng tối, và đã vỗ nhẹ vào đầu Người-Chó. "Thế là tốt," tôi lại nói.


"Ngay bây giờ ông sẽ tàn sát tất cả bọn họ," Người-Chó nói.


"Ngay bây giờ," tôi đã trả lời, "Ta sẽ tàn sát tất cả bọn chúng, - sau ít ngày và một số thứ đã đến để vượt qua. Mỗi “người” trong số chúng cất giữ những cái mà ngươi dự phòng, mỗi “người” trong chúng sẽ bị tàn sát."


"Cái mà Chủ nhân mong muốn để giết chết, Chủ nhân giết chết," Người-Chó đã nói cùng với một sự thỏa mãn chắc chắn trong giọng nói của y.


"Và vì những tội lỗi của chúng có thể lớn lên," tôi nói, "hãy để chúng nó sống trong lời nói dại dột của chúng đến khi thời gian của chúng là chín muồi. Hãy để cho chúng không biết là ta là Chủ nhân."


"Ý muốn của Chủ nhân là ngọt ngào," Người-Chó đã nói, cùng với sự khéo xử sẵn có trong máu loài chó của y.


"Nhưng một “người” đã phạm tội," tôi nói. "ta sẽ giết chết nó, bất kỳ khi nào ta có thể gặp nó. Khi ta nói với ngươi, “Nó đấy,” hãy thấy là ngươi nhào vào nó. Và bây giờ ta sẽ đi tới chỗ những người đàn ông và những người đàn bà mà đã được tập hợp lại cùng nhau."


Trong một thời điểm lối vào của căn lều tạm đã bị làm tối đi bởi việc đi ra của Người-Chó. Rồi tôi đã đi theo và đã đứng lên, hầu như trong dấu vết chính xác ở chỗ tôi đã ở khi tôi đã nghe Moreau và chó săn hươu của ông ấy đeo đuổi tôi. Nhưng bây giờ đã là đêm, và tất cả hẻm núi đầy chướng khí quanh tôi đã tối đen; và tận bên kia, thay vì một chỗ dốc xanh lá cây, chan hoà ánh nắng, tôi đã thấy một ngọn lửa màu đỏ, ở trước mặt những hình dáng bị khom xuống, kỳ cục đang đi tới đi lui. Xa hơn đã là những cái cây dày, một băng của bóng tối, đã viền quanh phía trên cùng với dải buộc đen của những nhánh cao hơn. Mặt trăng đã vừa mới cưỡi lên trên cạnh sắc của hẻm núi, và như một vạch xuyên qua gương mặt của nó đã cuộn lên đường xoắn ốc của hơi cái đấy vĩnh viễn tuôn ra từ những lỗ phun khí của hòn đảo.


"Đi cạnh ta," tôi nói, tự lấy lại can đảm; và sát cánh bên nhau chúng tôi đã đi bộ xuống lối hẹp, lấy sự chú ý nhỏ của Những Thứ lờ mờ cái đấy đã chăm chú vào chúng tôi ở bên ngoài những căn lều tạm.


Không có “ai” xung quanh ngọn lửa đã cố gắng để chào đón tôi. Phần lớn chúng đã không đếm xỉa đến tôi, một cách phô trương. Tôi đã nhìn quanh tìm con Lợn-Linh-Cẩu, nhưng nó đã không ở đó. Cả thảy, có lẽ là hai mươi trong số những Người-Thú đã ngồi xổm, nhìn chằm chằm vào ngọn lửa hoặc nói chuyện với nhau.


"Ông ấy chết rồi, ông ấy chết rồi! Chủ nhân chết rồi!" đã nói giọng nói của chàng Người-Khỉ ở bên phải tôi. "Ngôi nhà Đau đớn - không có Ngôi nhà Đau đớn!"


"Ông ấy không chết," tôi nói, bằng một giọng nói ầm ĩ. "Ngay lúc này ông ấy theo dõi chúng ta!"


Cái này đã làm chúng giật mình. Hai mươi cặp mắt đã đánh giá tôi.


"Căn nhà Đau đớn đã ra đi," tôi nói. "Nó sẽ đến một lần nữa. Các người không thể trông thấy Chủ nhân; còn ngay lúc này ông ấy đang nghe giữa các người."


"Đúng thế, đúng thế!" Người-Chó nói.


Chúng đã dao động tại sự quả quyết của tôi. Một động vật có thể là đủ hung ác và xảo quyệt, nhưng cần một con người thật sự để nói một điều dối trá.


"Người với Cánh tay Băng bó nói một thứ lạ lùng," một trong số Người-Thú đã nói.


"Ta nói với chúng mày nó là như vậy," tôi đã nói. "Chủ nhân và Ngôi nhà Đau đớn sẽ đến một lần nữa. Nỗi thống khổ là cho kẻ phạm Luật!"


Chúng đã nhìn một cách tò mò lẫn nhau. Cùng với một vẻ không tự nhiên của sự lãnh đạm tôi đã bắt đầu chặt chặt một cách biếng nhác trên nền đất ở trước mặt tôi bằng cái rìu nhỏ của tôi. Chúng đã nhìn, tôi nhận ra, vào những nhát cắt sâu tôi đã làm trên lớp đất mặt.


Rồi con Đười Ươi đã đưa lên một sự nghi ngờ. Tôi đã trả lời nó. Rồi một trong số những con chấm lốm đốm đã phản đối, và một cuộc tranh luận sống động đã nhảy lên xung quanh ngọn lửa. Mỗi khoảnh khắc tôi đã bắt đầu cảm thấy thuyết phục hơn về sự an toàn hiện tại của tôi. Tôi đã nói bây giờ không có sự hồi hộp trong hơi thở của tôi, vì cường độ của sự kích động, cái đã làm phiền tôi lúc ban đầu. Trong tiến trình khoảng một giờ tôi thực sự đã thuyết phục vài trong số những Người-Thú về sự thật của những sự khẳng định của tôi, và đã nói cho phần lớn những con khác rơi vào một trạng thái tù mù. Tôi đã giữ một con mắt sắc nhọn cho kẻ thù của tôi con Lợn-Linh-Cẩu, nhưng nó không hề xuất hiện. Mỗi lúc này lúc khác một vận động khả nghi sẽ làm giật thột tôi, nhưng sự tin tưởng của tôi đã lớn lên một cách mau lẹ. Rồi khi mặt trăng đã bò trườn xuống từ tột đỉnh, hết kẻ này đến kẻ khác những “người” nghe đã bắt đầu ngáp (phô ra những cái răng kỳ quặc nhất trong ánh sáng của ngọn lửa chìm), và một “người” đầu tiên và rồi một “người” khác đã lui về phía những xào huyệt trên khe núi; và tôi, kinh sợ sự im lặng và bóng tối, đã đi cùng với chúng, biết rằng tôi đã là an toàn hơn cùng với vài trong số chúng hơn là với một “người” đơn độc.


Theo cách này đã bắt đầu phần dài hơn của sự ở lại ít lâu của tôi ở trên Hòn đảo này của Bác sĩ Moreau. Nhưng từ đêm hôm ấy cho đến khi sự kết thúc đã đến, đã có không phải một thứ đã xảy ra để nói là an toàn cả một dãy của các chi tiết khó chịu nhỏ không đếm xuể và việc bực dọc về một sự lo lắng không dứt. Cho nên tôi thiên vị việc không làm những ghi chép trong lỗ hổng đấy của thời gian, để nói chỉ một việc xảy ra cốt yếu trong mười tháng tôi đã trải qua như một sự thân mật của những súc vật có một nửa tính người này. Có nhiều cái gài trong trí nhớ của tôi mà tôi đã có thể viết, - những thứ mà tôi sẽ vui vẻ đưa tay phải của tôi để quên; nhưng chúng không giúp kể lại câu chuyện.


Trong sự nhìn lại dĩ vãng nó là kỳ lạ để nhớ một cách nhanh chóng như thế nào tôi đã hòa hợp với những cách thức của những quái vật này, và đã giành được sự tin tưởng của tôi một lần nữa. Tôi đã có những sự gây chuyện của tôi cùng với chúng tất nhiên, và vẫn có thể chỉ ra vài vết răng của chúng; nhưng chúng một cách nhanh chóng đã giành được một sự kính trọng lành mạnh đối với thủ đoạn của tôi trong việc ném đá và cắn bằng rìu nhỏ của tôi. Và lòng trung thành với Người-Thánh-Bênát của tôi đã vô cùng có ích cho tôi. Tôi đã thấy mức độ kính trọng đơn giản của họ đã dựa vào chủ yếu trên khả năng nện những vết thương sắc bén. Quả thực là, tôi có thể nói - không hợm mình, tôi hy vọng - là tôi đã giữ một cái gì đó như tính hơn hẳn giữa chúng. Một hoặc hai, “người” mà trong một sự truy cập hiếm hoi của trạng thái xuất thần tôi đã để lại vết sẹo còn hơn là tồi, buồn bực một mối hận thù với tôi; nhưng chúng đã tự trút giận chủ yếu là ở sau lưng tôi, và tại một khoảng cách an toàn từ những thứ có thể phóng ra của tôi, trong những bộ điệu nhăn nhó.


Con Lợn-Linh-Cẩu đã tránh mặt tôi, và tôi đã luôn ở trong sự báo động về nó. Chàng Người-Chó như hình với bóng của tôi đã căm ghét và đã khiếp sợ nó một cách mãnh liệt. Tôi thật sự tin cái đấy đã là tại gốc rễ của sự gắn bó của thú vật với tôi. Nó đã nhanh chóng rõ ràng đối với tôi là con quái vật cũ đã nếm máu, và đã theo bước Người-Báo. Nó đã tạo nên một cái hang ổ thú rừng ở một nơi nào đó trong khu rừng, và đã trở thành cô độc. Một lần tôi đã thử xui Người-Thú đi săn nó, nhưng tôi đã thiếu uy tín để làm cho chúng hợp tác cho đến một kết cục. Hết lần này tới lần khác tôi đã cố tiếp cận xào huyệt của nó và bất ngờ tấn công mà nó không biết; nhưng nó luôn luôn đã quá bén nhạy đối với tôi, và đã thấy hoặc đã đánh hơi được tôi và đã trốn thoát. Nó quả thực đã làm cho mỗi lối mòn trong rừng thành nguy hiểm đối với tôi và bạn đồng minh của tôi cùng với sự mai phục kín đáo của nó. Người-Chó đã rất sợ phải rời khỏi tôi.


Trong tháng đầu tiên gì đó Người-Thú, đã so sánh với điều kiện về sau của chúng, đã đủ chất người, và đối với một hoặc hai “người” ngoài anh bạn chó của tôi tôi thậm chí đã nhận thấy một sự khoan dung thân thiện. Sinh vật con-lười màu hồng nhỏ đã biểu lộ một tình cảm thương mến kỳ quặc với tôi, và đã tiến tới việc đi theo quanh tôi. Người-Khỉ đã làm tôi chán, thế nào đó; nó đã cho rằng, với sức mạnh của năm ngón chân của nó, nó đã là thứ ngang hàng với tôi, và mãi mãi nói luyên thuyên với tôi, - luyên thuyên những chuyện nhố nhăng thậm đại nhất. Một thứ về nó đã giải trí cho tôi một chút: nó đã có một mẹo mực trên cả tuyệt vời để đúc ra những từ ngữ mới. Nó đã có một ý nghĩ, tôi tin, là nói nhanh và không rõ ràng về những cái tên vô nghĩa tức là sử dụng đúng cách việc nói. Nó đã gọi nó là "Những suy nghĩ lớn" để phân biệt nó với "Những suy nghĩ nhỏ," những niềm ham thích sảng khoái mỗi ngày của cuộc sống. Nếu lúc nào tôi đã làm một sự lưu ý mà nó không hiểu, nó sẽ tán dương cái đấy rất nhiều, hỏi tôi để nói cái đấy một lần nữa, học cái đấy bằng cả tấm lòng, và bắt đầu lặp lại cái đấy, cùng với một từ ngữ sai ở chỗ này hay chỗ khác, với tất cả phần những Người-Thú hòa nhã hơn. Nó đã không nghĩ gì về cái rõ ràng và có thể hiểu. Tôi đã phát minh vài “Suy nghĩ lớn” rất kỳ dị cho việc sử dụng đặc biệt của nó. Tôi nghĩ bây giờ là nó đã là sinh vật ngờ nghệch nhất tôi từng gặp; nó đã phát triển theo cách đáng ngạc nhiên nhất tính ngờ nghệch đặc biệt của con người mà không đánh mất một tí tẹo nào sự dại dột tự nhiên của một con khỉ.


Cái này, tôi nói, đã ở vào các tuần đầu của sự tịch mịch của tôi giữa những súc vật này. Trong thời gian đấy chúng đã kính trọng thói quen đã được thiết lập bởi Luật, và đã cư xử cùng với sự lịch thiệp tổng thể. Một lần tôi đã tìm được một con thỏ khác nữa đã bị xé rách thành từng mảnh, - bởi con Lợn-Linh-Cẩu, tôi đã quả quyết, - nhưng đấy đã là tất cả. Đấy đã là khoảng Tháng năm khi tôi lần đầu tiên đã nhận thức một cách rành mạch một sự khác biệt lớn trong lời nói và dáng dấp của chúng, một cái sự thô lỗ ngày càng tăng trong cách phát âm, một sự miễn cưỡng ngày càng tăng để nói chuyện. Việc luyên thuyên của chàng Người-Khỉ của tôi đã tăng lên về âm lượng nhưng đã trở nên ít hơn và khó có thể hiểu hơn, càng ngày càng giống khỉ. Vài trong số những con khác đã hóa ra là hoàn toàn rời bỏ những gì đã nắm bắt được của chúng trong việc nói, mặc dù chúng vẫn còn hiểu cái tôi nói với chúng vào lúc ấy. (Bạn có thể hình dung ngôn ngữ, đã từng rõ ràng và chính xác, mềm mại và trôi chảy, đang đánh mất khuôn dạng và ý nghĩa, trở thành chỉ là những mớ tiếng động một lần nữa?) Và chúng đã đi bộ đứng thẳng cùng với một khó khăn ngày càng tăng. Mặc dù chúng một cách hiển nhiên đã cảm thấy ngượng về chính mình, mỗi lúc này lúc khác tôi lại sẽ bắt gặp “con” này hoặc “con” khác đang chạy trên những ngón chân và những đầu ngón tay, và hoàn toàn không có khả năng khôi phục lại tư thế đứng. Chúng đã cầm các thứ một cách lóng ngóng hơn; uống bằng cách hút, ăn bằng cách gặm, trở nên phổ biến hơn mỗi ngày. Tôi đã hình dung sắc sảo hơn bao giờ cái Moreau đã nói với tôi về "xác thịt thú vật ngoan cố." Chúng đã trở lại, và trở lại rất nhanh chóng.


Vài trong số chúng - những kẻ tiên phong trong chuyện này, tôi đã nhận ra cùng với một chút bất ngờ, đã là toàn những con cái - đã bắt đầu coi thường lệnh huấn thị của phép lịch sự, một cách chủ tâm đối với đa số. Những con khác thậm chí đã cố thử những sự vi phạm công khai trên thể chế hôn nhân một vợ một chồng. Truyền thống của Luật rõ ràng đã mất sức mạnh của nó. Tôi không thể đeo đuổi chủ đề khó chịu này.


Chàng Người-Chó của tôi một cách vô tri đã trượt chở lại thành chó một lần nữa; ngày lại ngày nó đã trở nên câm nín, bốn chân, rậm lông. Tôi một cách vừa vặn đã nhận ra sự quá độ từ người bạn trung thành của tôi tới con chó lảo đảo ở ngay cạnh tôi.


Khi sự cẩu thả và vô tổ chức đã tăng hết ngày này tới ngày khác, lối hẻm ở những chỗ cư ngụ, vốn chưa từng rất ngọt ngào, đã trở thành rất ghê tởm đến nỗi tôi đã bỏ lại nó, và đi xuyên qua hòn đảo tự làm cho mình một mái che bằng những cành cây giữa những sự tan hoang màu đen ở khu có hàng rào của Moreau. Trí nhớ nào đó về sự đau đớn, tôi nhận thấy, vẫn còn làm cho chỗ này thành chỗ an toàn nhất khỏi những Người-Thú.


Sẽ là bất khả thi để chi tiết hóa mỗi bước suy đồi của những quái vật này, - để nói như thế nào, ngày qua ngày, dáng vẻ con người đã bỏ chúng mà đi; như thế nào chúng đã từ bỏ những mảnh vải băng bó và những tấm áo choàng, đã ruồng bỏ rốt cuộc mọi mảnh y phục; như thế nào lông lá đã bắt đầu trải ra khắp tứ chi trần trụi; như thế nào những vầng trán của chúng đã thu hẹp lại và những khuôn mặt của chúng đã nhô ra; như thế nào sự thân mật gần giống như người mà tôi đã tự cho phép cùng với một số trong số chúng vào tháng đầu tiên đơn độc của tôi đã trở thành một sự khủng khiếp rùng mình để hồi tưởng.


Việc thay đổi đã là chậm chạp và không thể tránh được. Với chúng và với tôi nó đã đến không có một cú sốc rõ ràng nào. Tôi vẫn còn đi giữa chúng trong sự an toàn, vì không có cú xóc nào trong sự xuống cấp đã phóng thích gánh nặng ngày càng tăng của thú tính dễ bùng nổ cái đấy đã trục xuất tính người ngày lại ngày. Nhưng tôi đã bắt đầu sợ là ngay bây giờ cú sốc đấy phải đến. Súc-Vật-Thánh-Bernard của tôi đã đi theo tôi tới khu vực hàng rào mỗi đêm, và sự cảnh giác của nó đã cho phép tôi ngủ đôi khi trong một cái gì đó giống như sự yên bình. Con lười màu hồng nhỏ đã trở nên bẽn lẽn và đã bỏ lại tôi, để lê lết trở lại tới cuộc sống tự nhiên của nó thêm một lần nữa giữa những nhánh cây. Chúng tôi đã ở trong đúng trạng thái của sự cân bằng cái đấy sẽ còn lại trong một trong số những cái cũi "Gia đình Hạnh phúc" mà những người nuôi dạy thú phô bày, nếu như người dạy thú đã bỏ lại cái đấy vĩnh viễn.


Tất nhiên những sinh vật này đã không suy tàn thành các thú vật như vậy như người đọc đã thấy ở trong những khu vườn bách thú, - thành những con gấu thông thường, những con sói, những con cọp, thú nuôi có sừng, con lợn, và những con khỉ không đuôi. Vẫn còn một cái gì đó lạ lùng với mỗi con; trong mỗi thứ Moreau đã pha trộn động vật này cùng với cái đấy. Một con có lẽ đã là gấu một cách chủ yếu, con khác chủ yếu là giống mèo, con khác nữa nhiều phần giống như bò; nhưng mỗi thứ đã bị làm hư hỏng cùng với những sinh vật khác, - một kiểu thú tính bị tổng quát hoá xuất hiện qua những sự sắp đặt đặc trưng riêng. Và những mảnh vụn đang thoái hóa của loài người vẫn còn làm tôi giật mình mỗi lúc này lúc khác, - một sự tái hiện thoáng qua của lời nói, có lẽ thế, một sự khéo léo đột xuất của chân trước, một sự cố gắng đáng thương để đi thẳng người.


Tôi cũng phải chịu những thay đổi kỳ lạ. Quần áo của tôi đã treo quanh tôi như những mảnh vụn màu vàng, qua những kẽ hở của nó đã hở ra làn da bị sạm đi. Tóc của tôi đã mọc dài, và đã trở thành kết lại với nhau. Tôi đã được bảo là ngay cả bây giờ những con mắt tôi vẫn có một sự sáng ngời lạ lùng, một sự hoạt bát mau lẹ trong chuyển động.


Lúc đầu tiên tôi đã bỏ những giờ đồng hồ thanh thiên bạch nhật trên bãi biển phía nam, chờ đón một con tàu, hy vọng và cầu nguyện có một con tàu. Tôi đã mong mỏi Ipecacuanha trở lại khi một năm trời chầm chậm kéo dài; nhưng nó chưa bao giờ đến. Năm lần tôi đã thấy những cánh buồm, và ba lần đốt khói; nhưng không có gì đã từng chạm vào hòn đảo. Tôi luôn luôn đã có một ngọn lửa hiệu sẵn sàng, nhưng không nghi ngờ gì nữa là danh tiếng núi lửa của hòn đảo đã được lấy để giải thích chuyện đấy.


Đấy đã là chỉ vào khoảng tháng Chín hoặc tháng Mười là tôi bắt đầu nghĩ về việc làm một cái bè. Đến lúc ấy cánh tay tôi đã lành, và cả hai tay tôi đã là trong khả năng phục vụ tôi một lần nữa. Lúc đầu, tôi đã thấy tình trạng không tự lo liệu được của tôi là kinh hoảng. Tôi chưa bao giờ làm một nghề thợ mộc bất kỳ hoặc một công việc kiểu như thế trong đời tôi, và tôi đã bỏ hết ngày này đến ngày khác trong thực nghiệm chặt và chằng buộc giữa những cái cây. Tôi đã không có những sợi dây chão, và đã không thể bắt gặp cái gì để với cái đó làm những sợi dây chão; không có gì trong những loài bò leo dư dật đã hóa ra là đủ mềm dẻo hoặc bền chắc, và cùng với tất cả bãi rác bừa bãi của vốn kiến thức khoa học của tôi tôi đã không thể sáng chế ra cách nào để làm chúng thành như thế. Tôi đã bỏ ra hơn hai tuần đào bới giữa bãi tan hoang màu đen của khoảng sân hàng rào và trên bãi biển ở chỗ những chiếc thuyền đã bị cháy, tìm kiếm những cái đinh và những mẩu rải rác khác của kim loại cái đấy đã có thể tỏ ra hữu ích. Lúc này lúc khác vài Sinh-vật-Thú theo dõi tôi, và nhảy đi mất khi tôi đã gọi tới nó. Đã đến mùa của những trận mưa bão sấm sét và mưa nặng hạt, cái đấy đã làm chậm trễ công việc của tôi rất nhiều; nhưng rốt cuộc cái bè đã được hoàn thành.


Tôi đã mừng rỡ cùng với nó. Nhưng cùng với một sự thiếu nào đó của cảm giác thực tế cái đấy đã luôn luôn là tai ương của tôi, tôi đã làm nó ở cách biển một dặm hoặc hơn; và trước khi tôi kéo được nó xuống tới bãi biển thì nó đã rời ra từng mảnh. Có lẽ cái đấy cũng không sao vì tôi đã tránh khỏi việc hạ thủy nó; nhưng vào lúc đấy sự khốn khổ của tôi tại thất bại của tôi đã là rất bén nhạy là trong vài ngày tôi đã đơn giản là rầu rĩ ở trên bãi biển, và đã nhìn chằm chằm vào mặt nước và suy nghĩ về cái chết.


Tôi đã không, dù bằng cách nào, có ý muốn chết, và một việc bất ngờ đã xảy ra cái đấy đã cảnh báo tôi một cách không thể lầm lẫn về hành động dại dột của việc để nhiều ngày trôi qua như vậy, - vì mỗi ngày mới đã bị xếp đầy thêm mối nguy hiểm đang tăng lên từ phía những Người-Thú.


Tôi đang nằm trong bóng râm của bức tường khu hàng rào, nhìn chằm chằm ra ra biển, khi tôi đã bị giật mình bởi một cái gì đó lạnh động vào làn da gót chân tôi, và bắt đầu loanh quanh và đã thấy con lười uể oải mầu hồng nhỏ chớp mắt vào mặt tôi. Nó đã dài ra từ khi đánh mất lời nói và vận động tích cực, và lớp lông thẳng và mềm của súc vật nhỏ đã trở nên dày dặn hơn mỗi ngày và những móng vuốt lùn mập của nó nghiêng hơn. Nó đã làm một tiếng than vãn khi nó thấy nó đã thu hút sự chú ý của tôi, đã đi theo lối nhỏ về phía những bụi rậm và đã nhìn lại vào tôi.


Lúc đầu tôi đã không hiểu, nhưng ngay sau đó cái đấy đã nảy đến với tôi là nó đã mong muốn tôi đi theo nó; và cái này rốt cuộc tôi đã làm, - chầm chậm, vì ngày đã nóng bức. Khi chúng tôi đã đến được chỗ những cái cây nó đã leo trèo vào trong chúng, vì nó có thể du hành tốt hơn giữa những loài dây leo đung đưa của chúng hơn là trên mặt đất. Và bất ngờ trong một không gian bị giẫm nát tôi đã bắt gặp một nhóm rùng rợn. Sinh-vật-Thánh-Bernard của tôi nằm trên mặt đất, chết; và con Lợn-Linh-Cẩu đang cúi mình ở gần thân thể nó, kẹp chặt xác thịt run run cùng với những móng vuốt chả ra hình thù của nó, gặm vào nó, và gầm gừ với niềm khoái cảm. Lúc tôi tiếp cận, quái vật đã giương những con mắt sáng lòa của nó nhìn vào mắt tôi, những bờ môi của nó đã run run vén lên khỏi những chiếc răng đã bị những vết bẩn màu đỏ của nó, và nó đã gầm gừ vẻ đe doạ. Nó đã không sợ và không hổ thẹn; vết tích cuối cùng của sự bại hoại tính người đã biến mất. Tôi đã tiến lên thêm một bước, dừng lại, và đã rút súng lục của tôi ra. Rốt cuộc tôi đã có nó, mặt đối mặt.


Súc vật đã không tỏ dấu hiệu của sự rút lui; nhưng những vành tai của nó đã cụp lại, lông của nó dựng lên, và thân thể của nó thu lại. Tôi đã ngắm giữa hai mắt và nổ súng. Lúc tôi làm như vậy, nó đã chồm thẳng vào tôi trong một cú nhảy lao tới, và tôi đã bị đập phải như một con ky. Nó đã bám chặt vào tôi bằng tay què của nó, và đã đánh tôi vào mặt. Cú nhảy của nó đã mang nó đè lên tôi. Tôi đã ngã ở dưới phần nửa sau thân thể của nó; nhưng may mắn tôi đã bắn trúng như tôi đã định, và nó đã chết vừa đúng lúc nó nhảy. Tôi đã bò toài ra từ dưới trọng lượng bẩn thỉu của nó và đứng lên run rẩy, nhìn chằm chằm vào thân thể rung rung của nó. Sự nguy hiểm đấy ít nhất là đã qua rồi; nhưng cái này, tôi biết đã chỉ là cái đầu tiên trong cả dãy của những sự bộc phát trở lại cái đấy phải đến.


Tôi đã đốt cả hai xác chết trên một giàn thiêu làm từ bụi cây; nhưng sau chuyện đấy tôi đã thấy là trừ phi tôi bỏ lại hòn đảo, cái chết của tôi chỉ là một câu hỏi về thời gian. Những Người-Thú trong lúc đấy đã, với một hoặc hai biệt lệ, bỏ lại khe núi và tự làm cho mình những hang ổ theo khẩu vị của chúng giữa những bụi cây của hòn đảo. Vài con đã đi vơ vẩn vào ban ngày, đa số chúng đã ngủ, và hòn đảo có thể có vẻ hoang vắng đối với một người mới đến; nhưng vào ban đêm bầu không gian đã là gớm ghiếc cùng với những tiếng gọi và tiếng hú lên của chúng. Tôi đã có nửa phần nghĩ ngợi để làm một cuộc tàn sát chúng; để dựng nên những cái bẫy, hoặc đánh nhau với chúng bằng con dao của tôi. Giá mà tôi đã có những băng đầy đạn, tôi sẽ không ngập ngừng bắt đầu việc giết chóc. Có thể bây giờ còn lại không tới hai chục con từ những loài ăn thịt nguy hiểm; con can đảm hơn trong bọn này đã chết rồi. Sau cái chết của con chó tội nghiệp này của tôi, người bạn cuối cùng của tôi, tôi cũng đã chấp nhận tới phạm vi nào đó thực tiễn của việc ngủ vào ban ngày với mục đích để ở trên sự đề phòng của tôi vào ban đêm. Tôi đã xây dựng lại sào huyệt của tôi trong những bức tường của khu hàng rào, cùng với một lối ra vào hẹp như vậy đến nỗi bất cứ thứ gì cố gắng bước vào phải nhất thiết gây ra một tiếng ồn đáng kể. Những sinh vật cũng đã đánh mất kỹ năng về lửa, và đã khôi phục lại sự sợ hãi của chúng đối với nó. Tôi đã quay lại thêm một lần nữa, hầu như nồng nhiệt bây giờ, tới việc đóng vào với nhau những chiếc cọc và những cành cây để tạo thành một cái bè lớn cho việc đào tẩu của tôi.


Tôi đã tìm được cả nghìn sự khó khăn. Tôi là một người cực độ vụng về (sự giáo dục nhà trường của tôi đã qua trước những ngày […lỗi trong nguyên bản…]); nhưng phần lớn những đòi hỏi của một cái bè lớn tôi đã đáp ứng rốt cuộc bằng một cách vụng về, loanh quanh nào đó thế này hoặc thế khác, và lần này tôi đã lấy sự chú ý về độ bền. Sự trở ngại duy nhất không thể vượt qua được đã là tôi đã không có thùng lớn để chứa nước mà tôi sẽ phải cần nếu tôi trôi lềnh bềnh về phía trước ở trên những vùng biển ít người biết tới này. Tôi sẽ thậm chí thử làm đồ gốm, nhưng hòn đảo không chứa đất sét. Tôi thường đi và ủ rũ quanh hòn đảo và cố gắng với tất cả năng lực của tôi để giải quyết một khó khăn cuối cùng này. Thỉnh thoảng tôi mở lối cho những cơn bột phát hoang dã của sự cuồng nhiệt, chặt chém và bổ vỡ cái cây không may mắn nào đó trong sự bực mình quá quắt của tôi. Nhưng tôi đã không thể nghĩ được gì.


Và rồi đã đến một ngày, một ngày đáng ngạc nhiên, ngày tôi đã trải qua trong trạng thái xuất thần. Tôi đã nhìn thấy một cánh buồm về hướng tây nam, một cánh buồm nhỏ như buồm của thuyền buồm dọc nhỏ; và ngay lập tức tôi đã đốt lên một đống bụi cây vĩ đại, và đứng bên cạnh nó trong sức nóng của nó, và sức nóng của mặt trời buổi trưa, và quan sát. Suốt cả ngày tôi đã theo dõi cánh buồm đó, không ăn hay uống gì cả, vậy nên đầu tôi đã quay cuồng; và bọn Thú vật đã đến và đã nhìn trừng trừng vào tôi, và có vẻ tò mò, và đã bỏ đi. Nó vẫn còn cách xa khi đêm đã xuống và đã nuốt hẳn nó; và suốt cả đêm tôi đã làm công việc vất vả giữ ánh sáng rực rỡ của tôi sáng ngời và bốc cao, và những con mắt của bọn Thú vật đã sáng lên từ trong bóng tối, lấy làm lạ. Vào lúc bình minh cánh buồm đã gần hơn, và tôi thấy nó là cánh buồm hình thang dơ dáy của một chiếc thuyền nhỏ. Nhưng nó đã trôi đi một cách lạ lẫm. Những con mắt tôi đã mệt mỏi với việc theo dõi, và tôi đã chăm chú và không thể tin vào chúng. Hai người đã ở trong chiếc thuyền, ngồi thấp xuống, - một ở gần mũi thuyền, người kia ở bánh lái. Đầu thuyền không được giữ theo hướng gió; nó đã đi trệch đường và bỏ đi.


Lúc ngày đã trở nên sáng hơn, tôi bắt đầu vung vẩy mảnh giẻ cuối cùng của chiếc áo vét của tôi về phía họ; nhưng họ đã không nhận ra tôi, và vẫn ngồi yên lặng, đối mặt nhau. Tôi đã đi tới điểm thấp nhất của mũi đất thấp, và đã khoa chân múa tay và la hét. Đã không có sự phản hồi, và chiếc thuyền đã tiếp tục lộ trình vu vơ của nó, đi từ từ, rất từ từ, ra vịnh. Bất ngờ một con chim trắng rất to đã bay lên khỏi chiếc thuyền, và không ai trong những người đấy đã nhích động hay nhận ra nó; nó đã lượn vòng xung quanh, và rồi đã bay đi chệch phía trên đầu với những chiếc cánh mạnh mẽ của nó trải rộng ra.


Lúc đó tôi đã ngừng la hét, và đã ngồi xuống trên mũi đất và tựa cằm lên những bàn tay tôi và nhìn chằm chằm. Từ từ, từ từ, chiếc thuyền đã giạt quá về hướng tây. Tôi sẽ phải bơi ra tới đấy, nhưng một cái gì đó - một sự sợ hãi lạnh lùng, mơ hồ đã giữ tôi lại. Vào buổi chiều thủy triều đã làm chiếc thuyền mắc cạn, và đã bỏ nó lại trăm thước Anh gì đó về hướng tây của bãi đổ nát ở khu có hàng rào. Những người ở đó đã chết, đã chết từ rất lâu đến nỗi họ đã rã thành từng mảnh lúc tôi nghiêng chiếc thuyền lên mạn của nó và kéo họ ra. Một người đã có một mớ tóc đỏ bù xù, giống như thuyền trưởng của “Ipecacuanha”, và một chiếc mũ trắng bẩn thỉu nằm ở đáy chiếc thuyền.


Lúc tôi đã đứng ở bên cạnh chiếc thuyền, ba trong số những Thú vật đã lẻn đến từ những bụi rậm và khụt khịt mũi về phía tôi. Một trong những sự bộc phát của sự ghê tởm của tôi đã ập lên tôi. Tôi xô đẩy chiếc thuyền nhỏ xuống bãi biển và đã trèo trên mạn nó. Hai trong số bọn súc vật đã là thú-chó-sói, và đã tiến về phía trước cùng với những lỗ mũi rung rung và những con mắt nhấp nháy; con thứ ba đã là thứ không có đặc tính rõ rệt kinh khủng giữa gấu và bò. Khi tôi thấy chúng tiếp cận những tàn tích bất hạnh đấy, nghe thấy chúng gầm gừ với nhau và bắt gặp tia sáng le lói từ những cái răng của chúng, một nỗi khủng khiếp điên rồ đã nối tiếp sự ghê tởm của tôi. Tôi đã quay lưng về phía chúng, hạ buồm và bắt đầu chèo ra biển. Tôi đã không thể bắt mình nhìn lại phía sau tôi.


Tôi nằm, thế nào đó, giữa dải đá ngầm và hòn đảo đêm ấy, và sáng hôm sau đã đi vòng tới dòng suối và đã đổ đầy nước thùng chứa trống không trên thuyền. Rồi, với sự kiên nhẫn như thế, như tôi đã có thể chế ngự, tôi đã thu thập một số lượng trái cây, và đã mai phục và giết chết hai con thỏ với ba viên đạn cuối cùng của tôi. Khi tôi làm việc này tôi đã bỏ lại chiếc thuyền đã thả neo ở một chỗ nhô ra phía bên trong của dải đá ngầm, vì nỗi sợ về những Người-Thú.



(to be cont.)

Chưa có bạn nào ý kiến ý cò gì cả (không tính facebook).

Giơ tay bi bô phát biểu bằng nick Google, WordPress...

Bi bô bằng nick facebook, Yahoo...